CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở TRẺ

Những lúc buồn, thất vọng hay giận dữ, bố mẹ có thể cảm thấy thật tệ. Vâng, con cũng thế đấy. Tâm lý của một đứa trẻ không hề đơn giản, và những lời quát mắng, áp đặt không phải là giải pháp tốt. Hiểu con, và trở thành người bạn của con chính là phương pháp cùng con phát triển hiệu quả nhất. METTASOUL cùng chia sẻ với những người chăm sóc trẻ về các giai đoạn phát triển của trẻ để hiểu trẻ hơn nhé:

I. Mở đầu
Từ lúc sinh đến lúc chết, con người luôn lớn lên về mặt thể chất, cảm xúc, tâm trí, tinh thần…Tuy nhiên, chính trong thời thơ ấu mà sự tăng trưởng xảy ra nhanh nhất- chỉ trong vài năm đầu đời, chúng ta trở thành một em bé hoàn toàn độc lập, rồi thành một trẻ chạy lon ton thích khám phá, rồi đến một trẻ thích đặt câu hỏi, đến một trẻ vị thành niên có ý thức và người thanh niên đầy tự tin.
Theo định nghĩa, sự phát triển của trẻ là tiến trình tăng trưởng thể chất, tâm trí và cảm xúc từ lúc mới sinh đến 18 tuổi đối với trẻ em.

Khi làm việc với trẻ em, chúng ta cần hiểu về sự phát triển của trẻ vì:
  ♦ Trẻ có nhu cầu khác nhau tùy giai đoạn phát triển
  ♦ Chúng ta nói và tương tác với trẻ khác nhau tùy theo tuổi của trẻ
  ♦ Nếu có điều gì làm cho trẻ bị tổn thương ở một giai đoạn nào đó (như bị lạm dụng hoặc cha
mẹ tử vong) thì sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ.

II. Hành vi và nhu cầu của trẻ ở các giai đoạn phát triển khác nhau

 1.Từ mới sinh đến 2 tuổi

Khi trẻ mới sinh, trẻ hoàn toàn cần sự giúp đỡ và lệ thuộc người khác để được an toàn về thể chất và cảm xúc.Trẻ cần được giám sát thường xuyên vì trẻ không ý thức về sự an toàn.

a. Về mặt tâm lý xã hội

◊ Trẻ gắn bó với người chăm sóc và phát triển cảm giác yêu thương và tin tưởng.

◊ Sau đó trẻ cũng có cảm giác lo sợ khi phải xa cách mẹ, biết phân biệt người quen và người lạ.

◊ Trẻ hiểu nguyên nhân và hậu quả (vd, nếu đẩy trái banh trên sành nhà, thì banh sẽ lăn)

◊ Trẻ hiểu sự tồn tại của đồ vật mặc dù trẻ không còn thấy (vd trò chơi ú òa)

◊ Hiểu lời nói và làm theo lệnh đơn giản

◊ Biết tên một số đồ vật quen thuộc, vài bộ phận trong cơ thể, và khái niệm như trong/ngoài, hoặc mở/đóng

◊ Trở thành độc lập khi tự chơi một mình trong thời gian lâu.

b. Về mặt thể chất

◊ Trẻ học di chuyển cơ thể như ngóc đầu lên, tự ăn, ngồi, đứng, đi.

◊ Trẻ học cách sử dụng cùng lúc bàn tay và mắt để thao tác và ném đồ vật.

◊ Trẻ phát triển thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác.

c. Những điều cần quan tâm

◊ Trẻ không được đáp ứng các nhu cầu sẽ không phát triển về sự tin tưởng vào người khác khi trở thành người lớn.

◊ Khi trẻ không được nâng đỡ và động viên hoặc bị khiển trách, thì trẻ sẽ hay khiển trách và nghi ngờ khả năng của mình(vd trẻ bị khiển trách khi tiểu dầm)

d. Vai trò của người chăm sóc

◊ Nhất quán trong giờ ăn, tắm, thay quần áo để giúp trẻ phát triển sự tin cậy.

◊ Thân thiện và chấp nhận,động viên trẻ hoàn thành công việc.

2. Từ 3 đến 5 tuổi

a. Về mặt tâm lý xã hội

* Phát triển ngôn ngữ và hiểu biết bản thân

* Suy nghĩ về những điều kỳ diệu, xa thực tế

* Học luật xã hội

* Tìm hiểu cái gì thật và cái gì tưởng tượng (vd trò chơi tưởng tượng, ác mộng)

* Nghĩ về “bây giờ và ở đây” hơn là tương lai

* Đặt nhiều câu hỏi

* Bắt đầu hiểu hậu quả của việc làm/cảm xúc và phân biệt đúng/sai

* Bắt đầu đi nhà trẻ/mẫu giáo và tập đếm số

* Bắt đầu quan hệ với bạn bè và thầy cô

b. Về mặt thể chất
* Kỹ năng tự lập (mặc quần áo,ăn uống, vệ sinh)

* Có nhiều năng lượng

c. Những điều cần quan tâm
* Không tự lập được có thể dẫn đến mặc cảm tội lỗi và sợ thử những công việc mới

* Có khuynh hướng lệ thuộc vào người lớn quá đáng

* Có thể khó quan hệ với người khác sau này trong cuộc sống

* Khó có khả năng ứng xử và quyết định

d.Vai trò của người chăm sóc

* Cho phép trẻ có kinh nghiệm và đồng thời cho giới hạn

* Trả lời trung thực các câu hỏi của trẻ

* Khen ngợi khi trẻ hoàn thành công việc

* Không la mắng hoặc đánh đập khi trẻ thất bại một số công việc, giúp trẻ học cách làm tốt hơn hoặc khác hơn

* Động viên sự sáng tạo

* Động viên trẻ nói về cảm xúc (vd chia sẻ cảm xúc của cha mẹ, quan sát trẻ và thử diễn giải cảm xúc của trẻ)

Hiện nay ở nước ta, đặc biệt là ở các thành phố lớn số lượng trẻ em mắc bệnh về tâm lý ngày càng cao. Ở mỗi độ tuổi khác nhau trẻ có thể mắc những bệnh tâm lý khác nhau. Trẻ ở độ tuổi từ 7 đến 12 tuổi (tức là giai đoạn bắt đầu đi học) dễ mắc bệnh tâm lý hơn cả. Sau đây là một số biểu hiện bệnh về tâm lý ứng với từng độ tuổi nhất định và nguyên nhân của bệnh.

7 tuổi
Khi trẻ bắt đầu vào lớp 1, trẻ sẽ cảm thấy xa lạ với việc phải đến lớp do có nhiều thay đổi hơn về mặt nề nếp so với lúc học ở nhà trẻ và trường mẫu giáo. Trẻ phải học cách làm việc trong môi trường có kỷ luật cao hơn, chẳng hạn như ngồi học liên tục trong nhiều giờ, đi học phải đúng giờ, phải chuyên cần, phạm lỗi phải bị phạt,… mà không được tự do vui chơi như trước đây nữa.

Nhiều trẻ rơi vào trạng thái chán ghét việc đến trường, thường xuyên quấy khóc trong một thời gian dài và liên tục. Một số trẻ ngoan ngoãn đến lớp nhưng cảm thấy xa lạ với mọi người nên luôn hạn chế tiếp xúc dẫn đến trầm cảm cho trẻ.

8 đến 9 tuổi
Trẻ bắt đầu quen với trường lớp và hình thành ý thức kỷ luật ở nhà trường. Trẻ cũng bắt đầu nhận thức được tâm lý chủ quan của bản thân nhưng không kiểm soát được cảm xúc của bản thân và những người xung quanh.

Tâm lý trẻ rất khó ổn định, lúc thì phấn khích, khi thì chán chường và bất cần. Đặc biệt là khi bị người khác chỉ trích hay phê bình. Trẻ thường cảm thấy thiếu thốn tình cảm và không hạnh phúc khi không được quan tâm đúng mức.

10 đến 11 tuổi
Ở độ tuổi này, trẻ bắt đầu có những bộc lộ về cá tính và sở thích riêng cũng như bắt đầu biết quan tâm tới các vấn đề xã hội xung quanh mình. Trẻ dần có những biểu hiện của người lớn và cảm thấy giữa mình và bố mẹ có những khác biệt.

Trẻ có thể nói dối bố mẹ một số điều, không phải vì trẻ hư hỏng mà vì trẻ không muốn quá dựa dẫm vào bố mẹ nữa. Tâm sự như một người bạn với trẻ có thể giúp trẻ mở lòng mình hơn.

12 tuổi
Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu dậy thì, có những thay đổi rõ rệt về mặt thể chất và tâm sinh lý. Trẻ cũng tự nhận thức rõ về bản thân mình hơn do đó không muốn bị coi là trẻ con, muốn khẳng định sự độc lập của mình với gia đình và bạn bè. Trẻ cũng muốn khẳng định mình, xóa bỏ đi hình ảnh “trẻ con” của mình để mang vào cái vỏ của người lớn. Chính lúc này trẻ trở nên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất.

Ngoài ra áp lực trong hộc tập cũng cao hơn so với những độ tuổi trước cũng khiến trẻ rơi vào tình trạng mệt mỏi, căng thẳng rối loạn dẫn đến chán học, không muốn tiếp xúc với người xung quanh hoặc muốn gây gổ đánh nhau.

Phòng ngừa và điều trị

Thực tế cho thấy trẻ em sống trong gia đình càng có điều kiện tốt càng dễ mắc các bệnh về tâm lý. Một số gia đình có cha mẹ là trí thức nhưng trẻ lại thiếu thốn tình cảm, cha mẹ không có sự quan tâm đúng mức và đúng cách với con cái. Các bậc cha mẹ thường dồn trách nhiệm chăm sóc, dạy dỗ con mình cho nhà trường trong khi việc quan tâm chia sẻ với con là rất quan trọng trong việc hình thành tâm lý cho trẻ.

Bên cạnh đó, một số gia đình lại quan tâm, chăm sóc và nuông chiều con quá mức cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển tự nhiên của trẻ. Do không cảm nhận được sự quan tâm thích hợp của gia đình, đặc biệt là cha mẹ, các em phản ứng lại bằng thái độ thụ động, dần dần dẫn đến mắc các bệnh về tâm lý.
Gia đình cần tạo môi trường sinh hoạt, học tập và vui chơi thoải mái cho trẻ có điều kiện hòa nhập với thế giới xung quanh. Thương yêu và tôn trọng sở thích cũng như những nguyện vọng chính đáng của trẻ để trẻ luôn tin tưởng và muốn chia sẽ mọi điều với gia đình. Không ép trẻ theo ý người lớn nhưng cũng không buông lỏng trẻ, quan sát và tư vấn cho trẻ theo hướng tích cực mà vẫn tạo cảm giác thoải mái, tự do cho trẻ.

Khi phát hiện trẻ có các dấu hiệu của bệnh tâm lý cần điều trị sớm vì càng để lâu, bệnh đế giai đoạn mãn tính rất khó điều trị cũng như tốn nhiều thời gian. Tìm hiểu nguyên nhân của bệnh từ đó có cách điều chỉnh môi rường sống thuận lợi cho việc điều trị.

Đối với trẻ mắc bệnh tâm lý mức nhẹ thì việc trò chuyện, an ủi, động viên thường xuyên là liệu pháp tốt nhất. Nên hạn chế sử dụng các loại thuốc nếu còn cách điều trị khác vì sử dụng nhiều thuốc có thể gây hại tới sức khỏe của trẻ.

4. Từ 12 đến 18 tuổi

a. Về mặt tâm lý xã hội
* Suy nghĩ đầu tiên đến bản thân
* Bắt đầu suy nghĩ về tương lai
* Chú ý đến các mối quan hệ xã hội và quan tâm đến ngoại hình, niềm tin và giá trị
* Xác định nhân thân, đồng thời thất vọng khi hòa nhập với một nhóm
* Không thích làm điều được yêu cầu
* Muốn độc lập nhưng vẫn lệ thuộc
* Trải nghiệm một sự chia rẻ mạnh mẽ giữa vai trò nam nữ
* Bắt đầu những mối quan hệ nghiêm túc(lãng mạn, trong gia đình và bạn bè)
* Bắt đầu nghĩ đến những điều trừu tượng như tầng lớp xã hội và cách hành vi của trẻ ảnh
hưởng đến gia đình và cộng đồng
* Bắt đầu hiểu những vấn đề luân lý và biết đúng/sai
* Tăng nhu cầu cảm xúc và không an toàn
* Thực hành làm người lớn

b. Về mặt thể chất
* Thay đổi nhiều trong cơ thể(dậy thì)

c. Những điều cần quan tâm
* Nếu trẻ không thành công để hoàn tất giai đoạn này, thì sẽ có sự hỗn loạn trong nhân thân,
tôn giáo ,tính dục,v.v..

d. Vai trò của người chăm sóc
* Duy trì sự giao tiếp cởi mở
* Động viên trẻ nói về những suy nghĩ hoặc bày tỏ ý kiến
* Cung cấp lời khuyên và hướng dẫn
* Thiết lập giới hạn với trẻ
* Cho trẻ có cơ hội bày tỏ sự nóng giận hoặc các cảm xúc khác

Tóm tắt

Mặc dù trẻ có những nhu cầu khác nhau ở các giai đoạn khác nhau, trẻ vẫn là “con người” và có những nhu cầu chung! Cho dù trẻ ở lứa tuổi nào, trẻ vẫn học và phát triển bằng cách:

◊ Cảm thấy được yêu thương, có giá trị và được mong muốn
◊ Qua trò chơi và khám phá
◊ Phạm lỗi
◊ Thực hành nhiều lần
◊ Đặt câu hỏi
◊ Nhìn gương sống
◊ Qua kinh nghiệm

Vì thế, mọi trẻ em đều cần môi trường an toàn và chắc chắn để phát triển thực phẩm, quần áo, nhà ở, giáo dục và sự an toàn tối thiểu một người cố định trong cuộc đời để đáp ứng nhu cầu cảm xúc(nuôi dưỡng/tình yêu/âu yếm) nhiều cơ hội để khám phá môi trường cũng như các kỹ năng và cảm xúc mới một cách an toàn rất nhiều kiên nhẫn và hiểu biết từ những người lớn trong thế giới được bạn cùng trang lứa chấp nhận cảm thấy được nhìn nhận và đánh giá cao bản thân biết có vai trò trong gia đình, cộng đồng và nhóm bạn được phép và được động viên để tham gia được nói và được lắng nghe.

III. Vai trò của “Chơi” trong sự Phát triển của Trẻ

1. Mục tiêu của Chơi
Nhiều trẻ trên thế giới đang lớn lên với rất ít cơ hội để chơi. Những đòi hỏi hằng ngày trong cuộc sống của trẻ đã giảm rất nhiều thời gian chơi. Nhiều trẻ như trẻ bị nhiễm HIV chẳng hạn, đóng vai trò của người lớn(vd nuôi cha mẹ bệnh, chăm sóc em, kiếm tiền để nuôi sống gia đình và quán xuyến việc nội trợ). Chơi là công việc của trẻ và là mấu chốt của sự phát triển tâm lý xã hội lành mạnh.

2. Tại sao Chơi quan trọng?

Vì chơi giúp trẻ học hỏi, được chữa lành và vui đùa.

a. Học hỏi
◊ Chơi có ý nghĩa trong sự phát triển của trẻ và góp phần trong sự phát triển xã hội, cảm xúc, thể chất và tâm trí.
◊ Đó là một trong những cách để trẻ tìm ra tác động của trẻ trên môi trường và trên bản thân.
◊ Đây là một phương pháp học tập tích cực với nhiều thao tác và giúp trẻ sự thành thạo,tự tin, và phát triển kỹ năng cơ bản-gồm kỹ năng xã hội.
◊ Trẻ em tò mò, và chơi là một cách an toàn để khám phá và học hỏi về môi trường. Chơi cá nhân và tập thể hỗ trợ sự tăng trưởng của não, thúc đẩy sự phát triển của sức mạnh và phối hợp thể chất, cung cấp sự thư giãn, động viên việc lập kế hoạch, hỗ trợ tiến trình biểu tượng, cho phép thực hành kỹ năng sống, thống nhất cơ thể, trí tuệ và tâm linh, và cho phép trẻ vui học.

b. Chữa lành
◊ Ngoài vai trò trong sự phát triển của trẻ, chơi còn có giá trị của quyền năng chữa lành đối với những trẻ đối đầu với những kinh nghiệm gây sang chấn trong đời. Vài tâm lý gia nói chơi là tiến trình tự nhiên nhất để tự chữa lành trong thời thơ ấu. Chơi cho phép cảm xúc được bộc lộ, cho phép sự bù đắp qua sự tưởng tượng đối với những mất mát, sang chấn, thất bại và khám phá bản thân.
◊ Chơi cũng là cách xây dựng sự tin cậy và tiếp xúc thân thiện với trẻ vì đây là một sinh hoạt lý
thú, vui tươi và hồn nhiên đối với trẻ. Chơi là một công cụ hoặc kỹ thuật đặc biệt được dùng
trong các sang chấn tâm lý xã hội mà nhiều trẻ trải qua trong chiến tranh và những thảm
họa xã hội khác như HIV/AIDS.

c. Vui đùa
Trẻ chơi vì vui tươi và đó là điều trẻ thích làm!

3. Những loại trò chơi khác nhau
Có nhiều trò chơi khác nhau khi trẻ lớn lên. Chúng ta hãy nhớ các giai đoạn phát triển khác nhau, và hãy lưu ý các mức độ chơi khác nhau (tên của trò chơi không quan trọng, chúng ta cần tập trung vào điều trẻ học được qua trò chơi).

Tuổi của trẻ

Loại trò chơi

Đặc tính

0-2 tuổi

Vận động-giác quan(trẻ dùng khả năng để kiểm soát cơ thể phối hợp với sự kích thích giác quan)

·         Bắt đầu khi bé khởi sự khám phá cơ thể bản thân

·         Bao gồm 5 giác quan

·         Tiếp tục khi trẻ lớn lên cho đến khi trẻ bắt đầu chơi những trò chơi khác

> 2 tuổi

* Giả bộ hoặc biểu tượng(dùng trí tưởng tượng)

 

* Xây dựng: một phần của trò chơi biểu tượng

·         Bắt chước

·         Giả bộ với đồ vật (vd dùng hòn gạch như chiếc xe ô-tô)

·         Đóng vai(vd vai cô giáo, bác sĩ)

·         Tương tác

·         Bắt đầu khi trẻ khởi sự nhớ hình ảnh hoặc tư duy hình tượng và tiếp tục suốt sự phát triển

 

* Trò chơi có mục tiêu (vd trẻ xây tháp với khối)

> 3-4 tuổi

Trò chơi với luật lệ

·         Bắt đầu ở tuổi mẫu giáo

·         Khi trẻ bắt đầu chơi trò chơi xã hội với sự cạnh tranh

·         Những trò chơi này lặp đi lặp lại va thiếu biểu tượng (như thể dục-bóng đá, bóng rổ)

BS.Phạm Ngọc Thanh


HỌC VIỆN METTASOUL – Huấn luyện Kỹ năng sống tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nhằm giúp từng cá nhân có thể phát triển tối đa khả năng và khơi dậy niềm đam mê sáng tạo để học tập và làm việc hiệu quả, tỏa sáng thành công.

THẮC MẮC TƯ VẤN

HỌC VIỆN METTASOUL

Tổng đài tư vấn 24/7: 1900 6295

Web: mettasoul.vn

Đọc giả cần chuyên gia tâm lý trợ giúp, chúng tôi luôn ấm áp chào đón qua lịch hẹn tại đây.

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *